Chủ nhật, 28/09/2025 13:26 [(GMT +7)]
Hiệp định Genève - Dấu son của ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh
Thứ 5, 06/07/2023 | 06:38:10 [GMT +7] A A
Ngày 21/7/1954, Hiệp định Genève về đình chỉ chiến sự và lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Đây là thắng lợi to lớn có tính chất bước ngoặt của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của Nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược, thể hiện khát vọng về một nền hòa bình gắn với độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, buộc Pháp phải chấp nhận đình chiến và cam kết rút quân khỏi Đông Dương - dấu mốc quan trọng của sự nghiệp cách mạng và ngoại giao Việt Nam. Thời gian đã lùi xa gần 70 năm, nhưng ý nghĩa và bài học kinh nghiệm quý giá về dấu son chiến thắng của Hiệp định Genève vẫn còn nguyên giá trị, khẳng định vị thế của ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong tình thế “ngoại xâm, nội phản”, kẻ thù đông và mạnh, “giặc đói”, “giặc dốt”, tài chính “trống rỗng”, vận mệnh của dân tộc và chính quyền cách mạng mong manh như “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã sáng suốt, ngoại giao tài tình, linh hoạt, mềm dẻo đã nhân nhượng những gì có thể để bảo vệ nền độc lập non trẻ và giữ được nền hòa bình cho đất nước. Thiện chí của “chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Thực dân Pháp đã vi phạm thô bạo đến các quyền dân tộc cơ bản của ta, mọi điều kiện hòa bình đã hết, chúng ta không thể nhân nhượng thêm được nữa.
Trong bối cảnh đó, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, nêu cao ý chí “chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, cuộc kháng chiến toàn quốc chính thức bùng nổ. Đảng và Chính phủ ta xác định: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Nhân dân ta mang tính chất chính nghĩa của một cuộc chiến tranh vệ quốc, chiến đấu để bảo vệ nền “độc lập, tự do” vừa giành được, nhưng do nước ta “đất không rộng, người không đông”, chưa có tiềm lực về kinh tế và quân sự nên kẻ thù đã không từ bỏ dã tâm cướp nước ta, không tôn trọng nền hòa bình và độc lập của ta. Vì vậy, cần phải kết hợp “vừa đánh, vừa đàm”, giành chiến thắng quân sự quyết định trên chiến trường để buộc chúng phải chấp nhận nhân nhượng cho ta trên bàn đàm phán.
Thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của quốc tế” của Đảng và Chính phủ, toàn thể dân và quân ta đã anh dũng nhất tề đứng lên, tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ đầy hy sinh, gian khổ và giành nhiều chiến thắng quân sự vang dội, mang tính quyết định trên khắp chiến trường như: Việt Bắc Thu Đông năm 1947, Biên giới Thu Đông năm 1950, tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu” ngày 07/5/1954.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã gắn liền với một chiến thắng trên lĩnh vực ngoại giao - chiến thắng của nền ngoại giao hòa bình, hòa hiếu Việt Nam, buộc thực dân Pháp phải chấp nhận đàm phán với ta tại Genève (Thụy Sĩ). Ngày 08/5/1954, với tư thế của một nước vừa chiến thắng, phái đoàn của ta do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn đã đến Hội nghị Genève. Hội nghị gồm 09 đoàn đại biểu tham dự, trong đó có 05 nước lớn: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhằm thảo luận vấn đề chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương. Hội nghị Genève diễn ra trong 75 ngày, đàm phán quyết liệt với 31 phiên họp, trong đó có 08 phiên họp rộng và 23 phiên họp hẹp theo cấp trưởng đoàn cùng các hoạt động tiếp xúc ngoại giao dồn dập đằng sau các hoạt động công khai. Ngay từ ngày hội nghị bắt đầu, ta đã chủ động triển khai nhiều hoạt động ngoại giao và vận động quốc tế, lập trường của ta là kiên định mục tiêu cơ bản “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước khác trên bán đảo Đông Dương”, ta kiên trì đấu tranh cho một giải pháp toàn diện bao gồm cả quân sự và chính trị.
Kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh ngoại giao là Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia được ký ngày 21/7/1954 và Tuyên bố của Hội nghị tạo thành khung pháp lý của Hiệp định Genève về Đông Dương, đồng thời, là những văn kiện pháp lý quốc tế đa phương đầu tiên của nước ta. Những văn kiện pháp lý tạo thành Hiệp định Genève là sự công nhận của các nước, trong đó có các nước lớn, các quyền dân tộc cơ bản của Nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được cam kết tôn trọng; trở thành cơ sở chính trị - pháp lý quốc tế rất quan trọng của Nhân dân Việt Nam trong việc tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, chính nghĩa và độc lập dân tộc, tranh thủ sự đồng tình và hậu thuẫn của Nhân dân tiến bộ trên khắp thế giới cho cuộc đấu tranh chống sự can thiệp và xâm lược của đế quốc Mỹ. Hiệp định là dấu son đánh dấu sự thắng lợi to lớn trong 09 năm kháng chiến chống Pháp của Nhân dân ta, buộc Pháp phải chấm dứt chiến tranh và rút quân về nước; miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, xây dựng chủ nghĩa xã hội, là cơ sở pháp lý để tổng tuyển cử thống nhất đất nước tháng 7/1956.
Thắng lợi của Hiệp định Genève là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài, kiên quyết của ta trên bàn đàm phán; là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự với ngoại giao, giữa “đánh và đàm”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của đỉnh cao ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam vì hòa bình, hòa hiếu trên trường quốc tế, đưa nước Việt Nam trở thành một nhân tố không thể thiếu trong việc củng cố hòa bình và phát triển của thế giới hiện đại.
Gần bảy thập kỷ trôi qua kể từ ngày Hiệp định Genève được ký kết, Việt Nam và thế giới đã có nhiều đổi thay. Từ hiện tại nhìn về quá khứ để hướng tới tương lai trong xu thế hòa bình và phát triển, những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới đều nhận thấy chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh là những dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh chính nghĩa trường kỳ, gian khổ của Nhân dân Việt Nam, đánh dấu sự lớn mạnh của nền ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Lê Văn Sơn
Ý kiến ()