Chủ nhật, 28/09/2025 13:29 [(GMT +7)]
Chủ tịch Tôn Đức Thắng với phong trào cách mạng miền Nam
Thứ 7, 29/07/2023 | 09:05:04 [GMT +7] A A
Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888-30/3/1980) - Người chiến sĩ cộng sản kiên trung của cách mạng Việt Nam, người bạn chiến đấu thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sinh ra trong hoàn cảnh nước nhà đang bị thực dân Pháp đô hộ, từ truyền thống đấu tranh kiên cường của quê hương, ngay từ lúc còn thời niên thiếu, Bác Tôn đã có tinh thần yêu nước lớn lao, sớm tham gia hoạt động cách mạng. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở trường tỉnh Long Xuyên năm 1906, đồng chí Tôn Đức Thắng lên Sài Gòn với ý định học việc và thực hiện hoài bão cuộc đời. Nhận ra sức mạnh và những bất công mà giai cấp công nhân (GCCN) phải chịu đựng, đồng chí Tôn Đức Thắng đã lựa chọn thi vào Trường Bá Nghệ để làm thợ. Từ đây, đồng chí Tôn Đức Thắng đã hòa mình vào phong trào đấu tranh của GCCN, chống lại chính quyền thực dân đang thống trị tàn bạo GCCN và nhân dân lao động.
Năm 1915, đồng chí Tôn Đức Thắng vào học trường Cơ khí Á Châu ở Sài Gòn, sau đó vào làm việc trên chiến hạm Phơ-răng-xơ (Pháp) năm 1916. Tại đây, đồng chí Tôn Đức Thắng đã tham gia cuộc binh biến, phản đối hành động can thiệp chống nước Nga và tham gia vào sự kiện kéo cờ đỏ trên chiến hạm Phơ-răng-xơ ở Biển Đen vào ngày 20/4/1919. Với sự kiện này, đồng chí Tôn Đức Thắng bị trục xuất về nước. Năm 1920, đồng chí Tôn Đức Thắng tích cực tham gia hoạt động nghiệp đoàn và phong trào của GCCN ở Sài Gòn. Nhận thức rõ về sự cần thiết phải có tổ chức trong công nhân mới có thể đem lại quyền lợi thiết thực, cuối năm 1920, ông bí mật thành lập và lãnh đạo Công hội bí mật - hình thức tổ chức đầu tiên của GCCN Việt Nam, với mục đích là đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau và đấu tranh chống ách áp bức, bóc lột, bênh vực quyền lợi của công nhân. Đồng chí Tôn Đức Thắng được các hội viên cử làm Hội trưởng.
Từ năm 1920-1925, tổ chức Công hội phát triển mạnh về số lượng (tới 300 người), đã có tác dụng thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân ở Sài Gòn, tiêu biểu như cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm Chợ Lớn tháng 11/1922. Sự kiện này đã được đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhắc đến trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (xuất bản ở Paris đầu tiên năm 1925), coi đây là dấu hiệu của GCCN “bắt đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình”. Đặc biệt, trong cuộc bãi công của hơn 1.000 công nhân xưởng Ba Son (từ ngày 04/8-12/8/1925), đồng chí Tôn Đức Thắng đã tổ chức lãnh đạo cuộc bãi công và giành thắng lợi vẻ vang. Sau cuộc bãi công, dưới sự lãnh đạo của Công Hội bí mật, phong trào đấu tranh của công nhân Sài Gòn liên tiếp nổ ra, quy mô và trình độ tổ chức ngày một nâng lên.
Tháng 10/1926, các đồng chí Phan Trọng Bình, Nguyễn Văn Lợi được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử về Nam bộ xây dựng tổ chức có mặt tại Sài Gòn. Đầu năm 1927, các đồng chí liên lạc với đồng chí Tôn Đức Thắng và các đồng chí lãnh đạo Công hội. Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng nhiều cán bộ được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Từ giai đoạn này, Công hội bí mật đã thật sự hoạt động dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, với phương hướng gắn đấu tranh của GCCN với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Giữa năm 1927, đồng chí Tôn Đức Thắng được cử làm Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ bộ Nam kỳ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn, được phân công trực tiếp phụ trách công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1928, đồng chí Tôn Đức Thắng bị thực dân Pháp bắt ở Sài Gòn, địch kết án 20 năm tù khổ sai và đày ra Côn Đảo (1930-1945). Tại nhà tù Côn Đảo, đồng chí Tôn Đức Thắng chính thức trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) và tham gia Chi ủy chi bộ bí mật trong nhà tù Côn Đảo.
Sau cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, đồng chí Tôn Đức Thắng được thả tự do và trở về Nam bộ tham gia hoạt động kháng chiến. Qua từng giai đoạn lịch sử, đồng chí Tôn Đức Thắng đã được Đảng, Nhà nước ta giao trọng trách giữ những chức vụ quan trọng: Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (1945), Phó ban Thường trực Quốc hội (1946-1955), Trưởng ban Thường trực Quốc hội (1955-1960) tương đương Chủ tịch Quốc hội sau này, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1969) và Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1976). Chủ tịch Tôn Đức Thắng (Bác Tôn) là Đại biểu Quốc hội liên tục từ khóa I đến khóa VI, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khóa II đến khóa IV.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng là một tấm gương sáng về lòng trung thành, tận tụy; về tinh thần anh dũng, bất khuất; về đức tính khiêm tốn, giản dị. Trên 60 năm cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng chí Tôn Đức Thắng vinh dự là người đầu tiên được Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta; được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Đại đoàn kết cùng nhiều huân, huy chương và phần thưởng cao quý khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: suốt đời cần kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân”.
Lê Huy Dương
Ý kiến ()