Chủ nhật, 28/09/2025 05:57 [(GMT +7)]
310 năm Văn miếu Trấn Biên – Niềm tự hào của người dân Đồng Nai
Thứ 4, 16/04/2025 | 07:51:10 [GMT +7] A A
Văn miếu Trấn Biên hiện tọa lạc tại phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Lịch sử Văn miếu Trấn Biên gắn liền với công cuộc mở cõi về phương Nam của các chúa Nguyễn. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý xứ Đồng Nai, đặt vùng đất mới thành phủ Gia Định gồm 2 huyện: Huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn. 17 năm sau, tức năm 1715, chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây Văn miếu Trấn Biên, để thể hiện tư tưởng tôn vinh Nho giáo, phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo, kính trọng hiền tài và tiếp nối truyền thống văn hóa của người Việt ở phương Nam.
Văn miếu môn (là cổng ra vào của Văn miếu, nơi chào đón quan khách, ngăn cách không gian bên trong với bên ngoài Văn miếu)
Văn miếu Trấn Biên là văn miếu được hình thành sớm nhất ở vùng đất Nam bộ, là một trong những công trình văn hóa - lịch sử tiêu biểu của miền Nam Việt Nam. Văn miếu Trấn Biên không chỉ là một công trình kiến trúc mang đậm dấu ấn lịch sử, mà còn là biểu tượng thiêng liêng của tinh thần hiếu học, lòng tôn sư trọng đạo và truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam nói chung, vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng. Được phục dựng và gìn giữ qua nhiều thế kỷ, nơi đây không chỉ lưu giữ ký ức về một thời kỳ phát triển rực rỡ của văn hóa học thuật phương Nam, mà còn trở thành không gian văn hóa sống động, nơi diễn ra các hoạt động trưng bày, giáo dục truyền thống, gặp gỡ trí thức và giao lưu cộng đồng. Với vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm cùng chiều sâu văn hóa, Văn miếu Trấn Biên không đơn thuần là điểm đến du lịch, mà còn là nơi chạm đến tâm hồn người Việt, nhắc nhớ về cội nguồn tri thức, hun đúc tinh thần học tập và khơi dậy niềm tự hào dân tộc. Sự tồn tại và phát triển của công trình này chính là minh chứng sống động cho nỗ lực gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong lòng xã hội hiện đại.
Lịch sử hình thành và phát triển
Văn miếu là biểu tượng văn hóa nhằm để tôn vinh các giá trị văn hóa – giáo dục theo quan điểm, mục đích của nhà nước phong kiến Việt Nam. Văn miếu cổ xưa thờ Văn Xương đế quân (một vì sao coi sóc văn chương của hạ giới), về sau Văn miếu thờ Khổng Tử cùng các học trò của ông (có nơi thờ cả Khổng Tử và Văn Xương đế quân). Theo thư tịch, văn miếu sớm nhất có lẽ là Văn miếu Thăng Long được Lý Thánh Tông dựng năm 1070, năm 1076 đặt Quốc tử giám ở đấy để dạy học cho con em các quan lại. Từ đó, các đời vua nối tiếp nhau tu sửa, duy trì hoạt động của Văn miếu Thăng Long, đến thời Lê có xây nhiều văn miếu khác ở các trung tâm dân cư (như Văn miếu Bắc Ninh). Triều Nguyễn (kể cả 52 chúa Nguyễn) rất chú trọng xây dựng văn miếu để tôn vinh sự học, ngoài việc tu sửa, cải tạo các văn miếu có từ triều đại trước, các vua, chúa Nguyễn cho xây dựng mới nhiều văn miếu ở các trấn, tỉnh quan trọng. Theo Đại Nam nhất thống chí, văn miếu được xây dựng ở: Thăng Long, kinh thành Huế, Trấn Biên, Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Nam, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Vĩnh Long, Gia Định, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Quảng Yên, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Sơn Tây. Trong đó, Văn miếu Trấn Biên được xây dựng khá sớm ở phương Nam, là văn miếu của vùng Trấn Biên (nhiều tỉnh, thành của Nam bộ ngày nay) chứ không phải của một tỉnh như nhiều văn miếu khác.
Văn miếu Trấn Biên hình thành sớm nhất ở Nam bộ. Đến năm Minh Mạng thứ 5 (tức Giáp Thân, 1824), triều Nguyễn mới cho xây dựng văn miếu Gia Định ở thôn Phú Mỹ, huyện Bình Dương. Tại tỉnh Vĩnh Long, đến năm Tự Đức thứ 17 (1864), văn thân trong tỉnh mới hợp nhau dựng nên ở thôn Long Hồ, huyện Vĩnh Bình. Đấy là 3 văn miếu ở 6 tỉnh Nam bộ lúc bấy giờ, nhưng cách thức xây dựng hoàn toàn khác nhau. Nhìn rộng hơn, trừ Văn miếu Thăng Long được xây dựng năm 1070, thời vua Lý Thánh Tông và một số rất ít văn miếu có từ thời chúa Nguyễn (không rõ năm xây dựng), hầu hết các văn miếu ở những tỉnh khác trên cả nước được xây dựng vào các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Lý do đã khiến chúa Nguyễn Phúc Chu sai Trấn thủ dinh Trấn Biên là Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm Khánh Đức lựa chọn thôn Tân Lại, tổng Phước Vĩnh (nay là phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa) để xây dựng Văn miếu Trấn Biên là vì khi đó Biên Hòa đã là nơi dân cư ổn định, phát triển nhiều hơn vùng khác, kể cả Gia Định. Việc hình thành Văn miếu Trấn Biên đối với chúa Nguyễn có ý nghĩa như là sự khẳng định những giá trị văn hóa và cả chính trị ở một vùng đất mới.
Theo thuật phong thủy của người xưa, nơi dựng Văn miếu Trấn Biên là chỗ đất tốt. Sách Gia Định thành thông chí chép: Phía nam hướng đến sông Phước, phía bắc dựa theo núi rừng, núi sông thanh tú, cỏ cây tươi tốt. Còn Đại Nam nhất thống chí ghi rõ hơn: Phía nam trông ra sông Phước Giang, phía Bắc dựa vào núi Long Sơn, là một cảnh đẹp nhất ở Trấn Biên. Ban đầu, có thể Văn miếu Trấn Biên còn sơ sài, hoặc sau đó bị các cuộc chiến tranh (Tây Sơn - Nguyễn Ánh) làm tổn hại. Từ đó, Văn miếu Trấn Biên trải qua hai lần trùng tu lớn.
Năm Giáp Dần (1794), chúa Nguyễn Phúc Ánh đã sai Lễ bộ Nguyễn Hồng Đô trùng tu, giữa làm Đại Thành điện và Đại Thành môn, phía đông làm Thần miếu, phía tây làm Dục Thánh từ, trước xây tường ngang, phía tả có cửa Kim Thanh, phía hữu có cửa Ngọc Chấn, chính giữa sân trước dựng Khuê Văn các treo trống chuông trên đấy, phía tả có Sùng Văn đường, phía hữu có Duy lễ đường. Chu vi bốn mặt ngoài xây thành vuông, mặt tiền làm cửa Văn miếu, phía tả, phía hữu có cửa Nghi môn, rường cột chạm trổ quy chế tinh xảo, đồ thờ có những thần bái, khám vàng, ve chén và đồ phủ quỹ biên đậu đều chỉnh nhã tinh khiết. Lần trùng tu này diễn ra ngay trước khi Nguyễn Ánh đưa quân ra đánh chiếm Quy Nhơn. Bản thân nó cũng nói lên tầm quan trọng đối với tập đoàn phong kiến đương thời, chí ít Văn miếu Trấn Biên cũng như một tấm bình phong để Nguyễn Ánh đề cao Nho gia…
Lần trùng tu thứ hai diễn ra vào năm Tự Đức thứ 5 (Nhâm Tý, 1852). Lúc này, quy mô của Văn miếu Trấn Biên lớn hơn trước: Văn miếu chính đường và tiền đường đều 05 gian, lại dựng thêm 02 dãy tả vu và hữu vu, mỗi dãy 05 gian; đền Khải Thánh, chính đường và tiền đường đều 03 gian, một tòa cửa giữa 03 gian, một tòa cửa trước 01 gian, một tòa kho đồ thờ 03 gian, một tòa Khuê Văn các 02 tầng, ba gian hai chái; phía trước, biển “Đại Thành điện” đổi làm “Văn Miếu điện” và “Khải Thánh điện” đổi làm “Khải Thánh từ”.
Như vậy, đến thời Tự Đức, Văn miếu Trấn Biên đã được xây dựng hoàn chỉnh và to đẹp nhất. Sách Đại Nam nhất thống chí không chỉ ghi chép đầy đủ và chi tiết nhất về Văn miếu Trấn Biên so với các văn miếu khác mà còn kể rằng, những lần xây dựng và trùng tu đều được đích thân các quan lại phụng mệnh người đứng đầu chính quyền trung ương thời bấy giờ (Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Ánh, Tự Đức) thực hiện. Đầu đời Trung hưng (trước năm 1802), đích thân chúa Nguyễn đến Văn miếu Trấn Biên để hành lễ hàng năm vào ngày đinh mùa xuân và mùa thu. Từ đó về sau (khi nhà Nguyễn đã được thiết lập), khâm mạng vua, quan Tổng trấn thành Gia Định đến hành lễ, cùng với Trấn quan Biên Hòa và quan Đốc học (vị quan xem việc học ở trấn Biên Hòa). Bên cạnh là nơi thời cúng, Văn miếu ở kinh sư (thủ đô) còn có Quốc tử giám để giảng dạy học trò. Ở Biên Hòa, bên cạnh Văn miếu là Tỉnh học (trường học tỉnh Biên Hòa). Trường học lớn nhất của cả tỉnh này mãi đến đời vua Minh Mạng mới dời về thôn Tân Lại (phường Hòa Bình, Biên Hòa). Cũng vào thời Minh Mạng, Trường phủ Phước Long đã được thành lập ở thôn Bình Lợi, tổng Phước Vĩnh (nay là huyện Vĩnh Cửu). Như vậy, Văn miếu Trấn Biên đóng vai trò như là một trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Biên Hòa xưa.
Giá trị mang tính biểu trưng về văn hóa của Văn miếu Trấn Biên không chỉ được tầng lớp quan lại và sĩ phu phong kiến tôn vinh. Nhân dân Biên Hòa rất ngưỡng vọng và gọi bằng cái tên gần gũi hơn “Văn Thánh”. Cũng chính vì những lý do đó, năm 1861, ngay sau khi chiếm được tỉnh Biên Hòa, một trong những việc đầu tiên thực dân Pháp đã làm là đốt phá Văn miếu Trấn Biên. Trong hoàn cảnh ấy, Nhân dân Biên Hòa đã lén cất giấu đôi liễn của quan Bố chánh Ngô Văn Địch thuở trước, để rồi sau đó đưa về treo tại đình Hiệp Hưng, huyện Tân Uyên.
Trong dịp kỷ niệm 300 hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai đã giao cho thành phố Biên Hòa tái tạo lại Văn miếu Trấn Biên, xem đây là một trong những công trình văn hóa lớn, nhằm tôn vinh những giá trị nhân văn, giáo dục truyền thống. Ngày 09/12/1998, lễ khởi công xây dựng Văn miếu Trấn Biên được tổ chức long trọng tại khu du lịch Bửu Long, nơi được xác định là vị trí của Văn miếu Trấn Biên xưa. Khu Văn miếu Trấn Biên (mới) nằm trên phần đất gần 50.000 m2. Công trình gồm 02 khu liền nhau: Khu thờ phụng, tế lễ và khu trưng bày truyền thống, sinh hoạt văn hóa, ranh giới 02 khu chỉ là một tường rào thấp và nối nhau bởi cổng tam quan. Tất cả các hạng mục chính của công trình phục dựng Văn miếu Trấn Biên được hoàn thành vào đầu năm 2002, một số hạng mục công trình vẫn tiếp tục hoàn thiện.
Văn miếu Trấn Biên được trùng tu và tôn tạo gần đây nhất là vào năm 2024, Bảo tàng Đồng Nai làm chủ đầu tư công trình bảo quản, tu bổ, tôn tạo Di tích quốc gia Văn miếu Trấn Biên với nhiều hạng mục: Văn miếu môn, khuê văn các, nhà truyền thống, nhà đề danh, đại thành môn, nhà bái đường, nhà thư khố, sân đại bái, nhà bia… Nhiều năm qua, Văn miếu Trấn Biên trở thành không gian văn hóa quan trọng, là nơi tổ chức nhiều hoạt động giáo dục, khoa học, nghệ thuật và là điểm tham quan thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Với ý nghĩa lịch sử và giá trị văn hóa vô giá của Văn miếu Trấn Biên, ngày 18/8/2016, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có Quyết định số 2894/QĐ-BVHTTDL công nhận Văn miếu Trấn Biên (phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Kiến trúc độc đáo và không gian văn hóa
Văn miếu Trấn Biên là một công trình mang đậm dấu ấn kiến trúc cổ truyền của Việt Nam, đồng thời thể hiện sự giao thoa hài hòa giữa yếu tố văn hóa – lịch sử và tinh thần hiếu học của vùng đất Nam bộ. Được xây dựng lần đầu vào năm 1715 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, nơi đây là Văn miếu đầu tiên ở Đàng Trong, mô phỏng theo Văn miếu Quốc Tử Giám ở Thăng Long (Hà Nội), với lối kiến trúc cổ kính, đăng đối và trang nghiêm.
Khuê Văn các (ngày xưa là nơi để các bậc hiền tài, những tao nhân mặc khách gảy đàn, ngâm thơ, ngắm trăng, đàm luận chuyện văn chương, thời cuộc; ngày nay Khuê Văn các là nơi để các nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học, trong và ngoài tỉnh, các vị lãnh đạo cấp cao đến thuyết trình, hội thảo về các vấn đề văn hóa, giáo dục…)
Văn miếu Trấn Biên được phục dựng lại từ những tư liệu cổ, những mô tả trong Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí. Kiến trúc của khuôn viên được thiết kế theo kiến trúc thời Nguyễn và tham khảo kiến trúc văn miếu cổ trên cả nước, trong đó có Quốc Tử Giám ở Hà Nội. Nhìn từ trên cao công trình nổi bật với màu ngói lưu ly xanh ngọc bằng gốm tráng men.
Toàn bộ khuôn viên Văn miếu Trấn Biên được quy hoạch theo trục thần đạo truyền thống, bao gồm các hạng mục chính như: Cổng tam quan, hồ nước, bình phong, sân hành lễ, nhà bia, chính điện và khu tưởng niệm. Cổng tam quan là biểu tượng đặc trưng của kiến trúc Nho giáo, với mái ngói cong vút, được chạm khắc tinh xảo, mang vẻ đẹp thanh thoát nhưng vẫn uy nghi. Đi sâu vào bên trong, không gian mở dần ra với hồ nước và cây xanh tạo nên một khung cảnh yên bình, thanh tịnh, rất thích hợp cho việc chiêm nghiệm và tưởng niệm.
Điểm nổi bật trong kiến trúc là Chính điện, nơi thờ đức Khổng Tử và các bậc hiền triết. Chính điện được thiết kế theo lối nhà rường truyền thống, mái ngói âm dương, cột gỗ lớn, tạo nên cảm giác trang nghiêm và linh thiêng. Nội thất được bài trí tinh tế với hoành phi, câu đối và tượng thờ, thể hiện sự tôn kính đối với các bậc tiền nhân có công gìn giữ và truyền bá đạo học. Trong khu thờ chính, gian trung tâm thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất. Gian bên trái thờ các vị danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam gồm: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du. Gian bên phải thờ những danh nhân văn hóa gắn liền với vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai và Nam bộ xưa: Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh, Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa.
Không gian Văn miếu Trấn Biên không chỉ mang ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc mà còn là điểm hẹn văn hóa, giáo dục đầy giá trị. Nơi đây thường xuyên diễn ra các hoạt động ý nghĩa như lễ tuyên dương học sinh, sinh viên xuất sắc; các buổi tọa đàm về văn hóa – lịch sử; các chương trình khuyến học, khuyến tài... Những sự kiện ấy không chỉ lan tỏa tinh thần hiếu học mà còn góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong đời sống hiện đại. Trong không gian thanh tịnh và trang nghiêm, Văn miếu Trấn Biên trở thành nơi kết nối quá khứ với hiện tại, nuôi dưỡng những giá trị nhân văn, hun đúc đạo lý “tôn sư trọng đạo” trong mỗi thế hệ người Việt. Với không gian thoáng đãng, xanh mát và mang đậm giá trị truyền thống hiếu học của dân tộc, mỗi năm Văn miếu Trấn Biên đón khoảng 300.000 lượt khách tham quan. Vào dịp lễ, Tết, nơi này thường tổ chức tết thầy cho các em học sinh, lễ hội hoa xuân, hội báo xuân tỉnh Đồng Nai, cùng nhiều hoạt động về nguồn, tưởng nhớ tổ tiên, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời đại mới.
Một buổi hoạt động ngoại khóa của các em học sinh tại Văn miếu Trấn Biên
Những danh nhân được tôn vinh tại Văn miếu Trấn Biên
(1) Khổng Tử - Đề cao đạo đức làm gốc cho thiên hạ (551 TCN – 479 TCN): Khổng Tử, tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, là nhà triết học, nhà giáo dục, nhà tư tưởng vĩ đại của Trung Hoa cổ đại. Ông là người sáng lập Nho giáo, học thuyết ảnh hưởng sâu rộng đến triết lý sống và mô hình giáo dục của nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Ông chủ trương xây dựng xã hội dựa trên các giá trị nhân (lòng yêu thương), nghĩa (sự chính trực), lễ (phép tắc), trí (hiểu biết), tín (niềm tin). Trong giáo dục, ông đề cao việc học để làm người, chú trọng “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Tại Văn miếu Trấn Biên, Khổng Tử được đặt thờ tại vị trí trung tâm, biểu tượng cho tinh thần “tôn sư trọng đạo” và nền tảng đạo đức làm người.
(2) Từ thầy giáo Nguyễn Tất Thành đến danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh - Một hành trình giáo dục hóa nhân loại (1890 – 1969): Người tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đổi thành Nguyễn Tất Thành, sau này được biết đến với tên Hồ Chí Minh. Người sinh tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, từng dạy học tại Trường Dục Thanh (Phan Thiết). Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà còn là nhà văn hóa lớn của nhân loại, được UNESCO vinh danh năm 1987. Người đề cao giáo dục, xem việc học là cách để thức tỉnh và giải phóng con người. Từ một thầy giáo yêu nước, Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của tinh thần tự học, khai sáng và dẫn dắt Nhân dân bằng đạo đức và tri thức. Tại Văn miếu Trấn Biên, Hồ Chí Minh được vinh danh như một biểu tượng văn hóa, giáo dục thời hiện đại.
(3) Chu Văn An – Văn miếu còn tên, hương khói nồng (1292 – 1370): Sinh tại làng Quang Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội, Chu Văn An là nhà giáo, nhà nho liêm khiết thời Trần. Ông từng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám – hiệu trưởng trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Ông dâng “Thất trảm sớ” yêu cầu vua Trần Dụ Tông xử tội 07 nịnh thần, nhưng không được chấp thuận, ông từ quan về quê dạy học. Ông là hình mẫu nhà giáo mẫu mực, trung thực, sống theo lẽ phải, nêu cao tinh thần học thuật và đạo đức. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông đại diện cho sự chính trực và nền giáo dục vì dân vì nước.
(4) Nguyễn Trãi – Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân (1380 – 1442): Quê ở Nhị Khê (Hà Nội), Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng, nhà văn hóa kiệt xuất, danh nhân văn hóa thế giới (UNESCO công nhận năm 1980). Ông là công thần khai quốc triều Lê, đóng vai trò then chốt trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, là tác giả “Bình Ngô đại cáo”, bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Tư tưởng nhân nghĩa “lấy dân làm gốc” của ông ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống chính trị, xã hội và văn hóa Việt Nam. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông được tôn vinh như một biểu tượng của trí tuệ và đạo đức chính trị.
(5) Nguyễn Bỉnh Khiêm – Bậc “thiên hạ sư”, lòng không quên lời răng dạy (1491 – 1585): Hiệu là Bạch Vân cư sĩ, sinh tại Hải Phòng, ông đỗ Trạng nguyên năm 1535, làm quan triều Mạc. Sau cáo quan, ông về dạy học, nghiên cứu triết học và sáng tác thơ văn. Được gọi là “Trạng Trình”, ông nổi tiếng với những lời tiên tri (Sấm Trạng Trình) và tư tưởng triết học sâu sắc mang đậm tinh thần dân tộc. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông là hình mẫu của nhà giáo trí tuệ, sống đạo đức và khai mở tư tưởng thời đại.
(6) Lê Quý Đôn – Nhà bác học đa tài, tinh hoa đất Việt (1726 – 1784): Quê ở Hưng Yên, đỗ Tiến sĩ năm 27 tuổi, Lê Quý Đôn là nhà bác học uyên thâm nhiều lĩnh vực. Ông để lại khối lượng lớn tác phẩm đồ sộ: Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Đại Việt thông sử... là tinh hoa tri thức Đông phương. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông đại diện cho tinh thần “học rộng, hiểu sâu”, là tấm gương về học thuật Việt Nam.
(7) Nguyễn Du – “Chữ tài liền với chữ tâm”, thấu tận lòng người (1766 – 1820): Sinh tại Hà Tĩnh, ông là đại thi hào dân tộc, tác giả “Truyện Kiều” – một kiệt tác văn học Việt Nam, phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội và thân phận con người. Nguyễn Du sống trong thời kỳ biến động chính trị, nhưng ông vẫn giữ được tấm lòng nhân ái và nhân văn sâu sắc. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông là biểu tượng của văn chương nhân đạo và tâm hồn Việt.
(8) Đặng Đức Thuật – Người thầy của những bậc thầy (1864 – 1951): Quê Quảng Bình, ông là thầy giáo của nhiều nhà cách mạng nổi tiếng như Võ Nguyên Giáp. Ông kiên trì truyền bá tinh thần yêu nước, nuôi dưỡng chí khí đấu tranh chống Pháp cho lớp trẻ. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông được tôn vinh là “người gieo mầm độc lập” bằng ánh sáng giáo dục.
(9) Võ Trường Toản – “Thảo ngay là nghĩa cả”, sống trung chính, thẳng ngay (mất năm 1792): Không rõ quê quán chính xác, ông là danh sư sống ở Gia Định. Không làm quan, ông sống ẩn dật, dạy học, được học trò và Nhân dân kính trọng. Nhiều nhân tài Nam bộ là học trò của ông như Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông là hình ảnh lý tưởng của người thầy đạo cao, đức trọng.
(10) Trịnh Hoài Đức – Tấm lòng ưu quốc, ái dân vô hạn (1765 – 1825): Sinh tại Biên Hòa, Đồng Nai, là danh sĩ triều Nguyễn, thuộc “Gia Định tam gia”. Ông giỏi thơ văn, sử học và địa lý, nổi bật với tác phẩm Gia Định thành thông chí – nguồn tư liệu quý giá về lịch sử, văn hóa phương Nam.
Tại Văn miếu Trấn Biên, ông đại diện cho lớp trí thức Nam bộ yêu nước, uyên bác.
(11) Ngô Nhơn Tịnh – “Thấu lòng chỉ có khách trong gương” (1803 – 1855): Nhà giáo nổi tiếng ở Nam bộ, sống thanh cao, chính trực, gắn bó với sự nghiệp giáo dục đến cuối đời. Tuy không để lại nhiều tác phẩm, nhưng ông nổi danh vì đức độ và ảnh hưởng lớn tới học trò. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông tượng trưng cho đạo làm thầy chuẩn mực, “trong như gương soi lòng người”.
(12) Lê Quang Định – Tài hoa và mẫn tiệp, văn võ song toàn (1759 – 1813): Quê ở Phú Yên, là danh thần triều Nguyễn, từng làm Thượng thư Bộ Hình, nổi tiếng về ngoại giao và văn chương. Ông là người tài hoa, hoạt động ở nhiều lĩnh vực, từng đi sứ sang Trung Quốc và biên soạn nhiều công trình có giá trị. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông là hình mẫu trí thức mẫn tiệp, phụng sự đất nước bằng cả tài và tâm.
(13) Nguyễn Đình Chiểu – “Căng số phận mình trên sợi dây đàn độc nhất”, ngòi bút và tinh thần không khuất phục (1822 – 1888): Sinh tại Gia Định, bị mù từ nhỏ nhưng không ngừng học tập và sáng tác. Là thầy thuốc, nhà thơ, nhà yêu nước. Tác phẩm tiêu biểu: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – ngợi ca những người nông dân đánh giặc, biểu tượng cho văn học yêu nước. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông là hiện thân của người trí sĩ bất khuất, lấy văn chương làm vũ khí.
(14) Bùi Hữu Nghĩa – Văn chương bốn bể đều biết, tâm hồn yêu nước kiên cường (1807 – 1872): Sinh tại Cần Thơ, đỗ Cử nhân, làm quan tại nhiều nơi nhưng luôn thanh liêm, chính trực. Ông được nhân dân yêu mến không chỉ vì văn tài mà còn vì tấm lòng nghĩa khí. Tại Văn miếu Trấn Biên, ông là biểu tượng của nhà nho yêu nước, lấy văn chương làm khí phách.
Giá trị văn hóa và giáo dục
Văn miếu Trấn Biên ra đời dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, trong bối cảnh vùng đất Nam bộ đang trong quá trình khai phá. Việc xây dựng một văn miếu tại đây không chỉ nhằm phục vụ cho việc tế lễ Khổng Tử – bậc “vạn thế sư biểu”, mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược, đưa tư tưởng Nho học vào định hướng giáo dục, đạo lý và tổ chức xã hội nơi vùng đất mới. Văn miếu vì vậy trở thành trung tâm văn hóa – giáo dục đầu tiên của phương Nam, nơi nuôi dưỡng nhân tài, hun đúc đạo lý và gìn giữ nếp sống học hành.
Trong thời kỳ hưng thịnh, Trấn Biên là nơi tổ chức các kỳ khảo hạch, khen thưởng học trò giỏi, nơi tụ hội của giới trí thức, sĩ tử và các bậc hiền tài. Dưới bóng cây cổ thụ, bên mái ngói rêu phong, những bài học về “nghĩa – nhân – lễ – trí – tín” từng vang vọng, nuôi lớn bao thế hệ học trò. Đó là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên nền học vấn phương Nam, làm tiền đề cho sự phát triển văn hóa – giáo dục Đồng Nai, Gia Định, Biên Hòa và khắp miền Nam sau này.
Ngày nay, Văn Miếu Trấn Biên không chỉ là nơi tưởng niệm Khổng Tử, mà còn là nơi vinh danh các danh nhân văn hóa, trí thức kiệt xuất của dân tộc. Những cái tên như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, hay những gương sáng từ miền Nam như Võ Trường Toản, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Đình Chiểu, đến Chủ tịch Hồ Chí Minh – tất cả được tôn thờ trang trọng, không chỉ vì học vị hay chức tước, mà vì đạo đức, tài năng và ảnh hưởng của họ đối với nền văn hóa Việt. Việc chọn lọc và tôn vinh các bậc hiền tài tại Trấn Biên là một thông điệp giáo dục rõ ràng: Học không phải để vinh thân phì gia, mà để “làm người”, để phục vụ đất nước và Nhân dân. Những bức tượng, tấm bia khắc ghi công trạng không chỉ nhắc nhớ lịch sử, mà còn là những bài học sống động về lòng yêu nước, tinh thần tự học, nghị lực vượt khó và trách nhiệm công dân.
Không dừng lại ở vai trò là một di tích, Văn miếu Trấn Biên hôm nay đã trở thành một không gian giáo dục đặc biệt, nơi “dạy” và “học” không diễn ra trong lớp học thông thường, mà thông qua lễ nghi, biểu tượng, sự kiện, và cả không khí linh thiêng nơi đất học. Những hoạt động như lễ khai bút đầu xuân, lễ dâng hương tưởng niệm các danh nhân, vinh danh học sinh giỏi, giáo viên tiêu biểu, tổ chức ngày hội khuyến học… đều là minh chứng cho việc biến không gian di sản thành trường học mở, kết nối truyền thống với hiện đại.
Trong bối cảnh giáo dục đang chuyển mình mạnh mẽ bởi tác động của công nghệ và hội nhập toàn cầu, Văn miếu Trấn Biên gợi nhắc chúng ta một giá trị bền vững: Học không chỉ để biết, mà còn để sống tốt, sống có trách nhiệm. Ở đó, tri thức phải đi liền với đạo đức, kỹ năng phải gắn với lý tưởng nhân văn, và thành công phải dựa trên cội rễ của văn hóa dân tộc. Văn miếu Trấn Biên là minh chứng sống động cho sức sống lâu bền của truyền thống hiếu học và tôn sư trọng đạo trong tâm thức người Việt. Trải qua bao biến động thời gian, di tích này vẫn đứng vững như một trụ cột tinh thần, như ngọn hải đăng soi đường cho các thế hệ nối tiếp. Giữa dòng chảy hiện đại hóa và toàn cầu hóa, những không gian như Trấn Biên càng trở nên quan trọng – nơi lưu giữ ký ức văn hóa, nơi nuôi dưỡng lý tưởng sống đẹp, nơi đánh thức khát vọng vươn lên bằng học vấn và nhân cách. Văn miếu Trấn Biên không chỉ là “văn miếu” theo nghĩa truyền thống, mà là một di sản sống, nơi quá khứ và hiện tại gặp gỡ, nơi con người hôm nay lắng nghe tiếng vọng của tiền nhân để tự hoàn thiện, để cống hiến cho một xã hội tốt đẹp hơn.
Công Minh
Tư liệu tham khảo
- 290 năm Văn miếu Trấn Biên, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2005.
- Trịnh Hoài Đức, tập hạ, tr. 108.
- Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, 1992, tập 5, tr. 74.
- Trịnh Hoài Đức, tập hạ, tr. 108.
Ý kiến ()